Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ là phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay

24/4/2024, 22:35:20
In trang

Trong bối cảnh đất nước đang trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội là hết sức cấp thiết. Ngày 16/3/2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trên cơ sở đó, Bộ Công an đã ban hành Đề án số 04/ĐA-BCA, ngày 30/01/2023 về “xây dựng lực lượng Cảnh vệ thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; đồng thời, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đến năm 2025, xây dựng lực lượng Cảnh vệ tiến thẳng lên hiện đại. Vì vậy, cần phải hoàn thiện các chế định của Luật Cảnh vệ quy định về lực lượng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm để kịp thời đáp ứng được nhiệm vụ nêu trên.


Ảnh minh họa

Luật Cảnh vệ được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 20/6/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018. Quá trình thực hiện Luật Cảnh vệ đã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp lý quan trọng quy định về tổ chức, hoạt động của lực lượng Cảnh vệ và trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành trong thực hiện công tác cảnh vệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, quá trình triển khai đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung đối với các nhóm vấn đề: Đối tượng cảnh vệ; biện pháp, chế độ cảnh vệ; quyền hạn của lực lượng Cảnh vệ. Cụ thể:

Đối tượng cảnh vệ là con người, bao gồm cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và khách quốc tế có tiêu chuẩn tương đương. Thực tiễn hiện nay cần thiết phải bổ sung thêm đối tượng cảnh vệ là:Thường trực Ban Bí thư; Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao. Vì, Thường trực Ban Bí thư là người chủ trì công việc hằng ngày của Ban Bí thư, giữ vị trí quan trọng trong tổ chức của Đảng, Nhà nước; Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao là những người đứng đầu các cơ quan tư pháp, có vai trò tác động đến công tác xét xử, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, xử lý tội phạm… nên tiềm ẩn các yếu tố nguy hiểm, nguy cơ bị kẻ xấu xâm hại tính mạng, sức khỏe. Ngoài ra, những người này được xác định là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo Kết luận số 35-KL/TW, ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Trong khi đó, Luật Cảnh vệ năm 2017 chưa quy định những trường hợp trên là đối tượng cảnh vệ; do vậy việc bổ sung diện đối tượng cảnh vệ nêu trên là cần thiết.

Luật Cảnh vệ quy định hội nghị, lễ hội do Trung ương Đảng, Nhà nước tổ chức, hội nghị quốc tế tổ chức tại Việt Nam có đối tượng cảnh vệ quy định tại khoản 1, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 10(hiện tại đối tượng cảnh vệ gồm 37 đồng chí, kể cả lãnh đạo đã nghỉ hưu như Nguyên Tổng Bí thư, Nguyên Chủ tịch nước…) dự hoặc chủ trì thì được xác định là sự kiện đặc biệt quan trọng và được áp dụng các biện pháp cảnh vệ là quá rộng và chưa phù hợp với thực tiễn công tác cảnh vệ về bố trí lực lượng, phương tiện, trang thiết bị triển khai công tác của lực lượng Cảnh vệ, gây ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi áp dụng các biện pháp cảnh vệ.  

Cần bổ sung thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ trong trường hợp cần thiết đối với các trường hợp không thuộc đối tượng cảnh vệ (quy định tại Điều 10 Luật Cảnh vệ) để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo đảm công tác đối ngoại. Thực tiễn cho thấy, công tác cảnh vệ luôn tiềm ẩn yếu tố bất trắc, khó lường, đòi hỏi phải có những quy định mang tính linh hoạt để kịp thời điều chỉnh, tạo điều kiện cho lực lượng Cảnh vệ triển khai công tác cảnh vệ góp phần bảo vệ an ninh, an toàn đối tượng cảnh vệ (thực tiễn từ năm 2018 đến nay, Bộ Công an đã tổ chức công tác bảo vệ 56 đoàn và một số trụ sở cơ quan mà theo Luật Cảnh vệ không quy định là đối tượng cảnh vệ, theo yêu cầu bảo đảm an ninh, an toàn, Bộ Công an vẫn triển khai một số biện pháp cảnh vệ phù hợp).

Một số thuật ngữ về biện pháp cảnh vệ, như: “Chế độ cảnh vệ”, “Kiểm tra an ninh, an toàn”, “Kiểm nghiệm thức ăn, nước uống”, “Sử dụng thẻ, phù hiệu” chưa đưa vào giải thích từ ngữ trong Luật; do vậy áp dụng trên thực tế chưa được thống nhất.

Luật Cảnh vệ hiện nay không tách biệt giữa biện pháp cảnh vệ và chế độ cảnh vệ dẫn đến không xác định được đâu là chế độ mà đối tượng cảnh vệ được hưởng, đâu là biện pháp cảnh vệ mà lực lượng Cảnh vệ phải thực hiện (Điều 11, Điều 12 Luật Cảnh vệ). 

Một số nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Cảnh vệ và điều kiện bảo đảm thực hiện công tác cảnh vệ hiện nay cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.

Với một số lý do nêu trên, cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, giải quyết các bất cập, vướng mắc của pháp luật về cảnh vệ, bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật về cảnh vệ, phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Ảnh minh họa

Ngày 22/02/2024, tại Phiên họp thứ 30, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV đã thảo luận, cho ý kiến và nhất trí trình Quốc hội dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2024). Hiện nay, dự thảo Luật được Bộ Công an chủ trì xây dựng và cụ thể hóa các chính sách được Chính phủ thống nhất thông qua tại Nghị quyết số 16/NQ-CP, ngày 09/02/2023, gồm: Chính sách bổ sung đối tượng cảnh vệ là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước. Xác định tiêu chí các hội nghị, lễ hội là đối tượng cảnh vệ. Hoàn thiện chính sách về biện pháp cảnh vệ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Quyền hạn của lực lượng Cảnh vệ. Trong đó đề xuất một số quy định đáng chú ý như sau:

- Bổ sung đối tượng cảnh vệ là con người, gồm: Thường trực Ban Bí thư, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao.

- Quy định rõ tiêu chí xác định đối tượng cảnh vệ là các sự kiện đặc biệt quan trọng, sửa đổi theo hướng thu hẹp phạm vi đối tượng cảnh vệ là sự kiện đặc biệt quan trọng. Cụ thể, “Hội nghị, lễ hội do Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ tổ chức; đại hội đại biểu toàn quốc do tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương tổ chức; hội nghị quốc tế tổ chức tại Việt Nam có đối tượng cảnh vệ là lãnh đạo chủ chốt như: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và khách quốc tế có chức vụ tương đương dự thì được xác định là sự kiện đặc biệt quan trọng.

- Bổ sung thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ trong trường hợp cấp thiết đối với các đối tượng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 10 Luật Cảnh vệ.

- Luật hóa một số quyền hạn của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ trong thực hiện nhiệm vụ cảnh vệ như: Quyết định phát hành thẻ, phù hiệu phục vụ công tác cảnh vệ. Trong trường hợp cần thiết, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ quyết định thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để bảo vệ đối tượng cảnh vệ quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 10 khi đi công tác nước ngoài.

- Tách quy định chế độ cảnh vệ và quy định biện pháp cảnh vệ thành hai nội dung độc lập để dễ xác định đâu là chế độ mà đối tượng cảnh vệ được hưởng, đâu là biện pháp cảnh vệ mà lực lượng Cảnh vệ phải thực hiện.

ANCTNB